Tốt nghiệp Đại học và bảo vệ Tiến sỹ tại Ba Lan 1973. Từ 1973 - 1983: Cán bộ giảng dạy Bộ môn Địa Vật lý, Khoa Dầu khí, ĐH Mỏ Địa chất Hà Nội. Từ 1983-1997: Công tác tại Bộ ĐH và THCN (nay là Bộ GD-ĐT). Từ 1997 đến 2011: Là nhà ngoại giao chuyên nghiệp. Công tác tại Ban Cán sự Đảng Ngoài nước. Đã công tác tại các Đại sứ quán VN ở Ba Lan, Hoa Kỳ - nguyên Tham tán, Bí thư Đảng uỷ ĐSQ.VN tại LB Nga.
- Đã xuất bản Dòng sông thương nhớ - Tập thơ in riêng - NXB Văn Học, Hà Nội 2011 và đăng thơ trên nhiều báo, tạp chí trong và ngoài nước
Đã có thơ tuyển trong: Việt Nam quê hương tôi, NXB Văn học, Hà Nội, 2000. Tuyển thơ “Nối hai dầu thế kỷ” của Hội VHNT VN tại LB Nga (2014)
Tưởng nhớ đến ông, Người bạn đường xin giới thiệu chùm thơ của ông cùng bạn đọc
EM TRAI
(Tưởng nhớ Liệt sĩ Đặng Hữu Huệ nhân Ngày TBLS)
Nhập ngũ khi tuổi vừa mười bảy
Bỏ lại sau lưng dang dở luống cày
Những đêm lụt tràn, những ngày nắng cháy
Bát cơm vơi,...Chưa bạn gái cầm tay.
Huấn luyện nửa năm - núi đồi Lục Ngạn
Vất vả, gian nan chẳng chút ngại ngần
Thư gửi về động viên cha mẹ
Con lớn rồi, xin cứ yên tâm.
Ngày vào Nam, nhắn tin ngắn ngủi:
Muốn gặp cha trên đường hành quân.
Cha đạp xe năm mươi cây số
Giữa mưa to gặp ở Quán Hành*
Từ ngày ấy vào Nam chiến đấu
Vượt Trường Sơn đi bộ sáu tháng liền
Chân chai sạn, vai bầm tím máu
Nước suối, ngủ rừng, sốt rét triền miên.
Cùng đồng đội quần nhau với địch
Chiến dịch này nối tiếp chiến dịch kia
Những lá thư gửi về cha mẹ
Chữ mờ nhoè - viết vội dưới trăng khuya.
Năm Bảy tư, chào mừng Sinh nhật Đảng**
Em xung phong giữ chốt lần hai
Giặc điên cuồng, tràn lên lấn chiếm
Giằng co với địch suốt đêm dài.
Em ngã xuống trong vòng tay đồng đội
Để lại huyết thư cho đơn vị, gia đình
Với niềm tin ngày mai chiến thắng
Độc lập, hoà bình, đất nước hồi sinh.
Mười bảy tuổi em vào bộ đội
Chưa một lần về lại quê nhà.
Ngày Thống nhất vui tràn nước mắt
Ngỡ thấy em dưới bóng cờ, hoa!
*Thuộc huyện Nghi Lộc, Nghệ An (cách Vinh 10 km về phía Bắc).
**Trong trận chiến đấu giữ chốt đêm mồng 3/3/ 1974, (đúng Ngày Thành lập Đảng theo quy định trước đây: "Hôm nay mồng Ba tháng Ba/ Là ngày kỷ niệm Đảng ta ra đời") Đặng Hữu Huệ bị thương nặng và sau đó hy sinh tại Bến Cát, Bình Dương sau khi đã lấy máu từ vết thương viết thư gửi lại cho đơn vị và gia đình - theo lời kể của bạn đồng đội cùng quê.
VIỆT NAM BIỂN ĐẢO YÊU THƯƠNG
Bờ biển Việt Nam hình chữ S
Trên ba ngàn hòn đảo yêu thương
Những đứa con Mẹ hiền đất nước
Tiền đồn Tổ quốc giữa trùng dương.
Vịnh Hạ Long nhấp nhô ngàn đảo
Đẹp như tranh vẽ cảnh thần tiên
Sửng Sốt, Thiên Cung, hang Đầu Gỗ...
Chiến công xưa còn mãi lưu truyền.
Côn Đảo đã trở thành huyền thoại
Với những tên Chuồng Cọp, Hàng Dương*...
Võ Thị Sáu anh hùng bất tử
Bao tấm gương bất khuất, kiên cường.
Đảo Phú Quốc, tây nam Tổ quốc,
Hòn ngọc xanh trên mặt biển xanh
Trải qua bao thăng trầm thời cuộc
Đất của ta vẫn vẹn nguyên lành.
Ơi Hoàng Sa, Trường Sa yêu dấu
Những cánh cung giương giữa biển khơi
Ai dám nói không là đất Việt
Nơi ông cha trấn giữ bao đời!
Ơi, Việt Nam trăm mến ngàn thương
Mỗi tấc đất, khoảng trời, biển đảo
Là tim óc, thịt da, xương máu
Của non sông, Tổ quốc thiêng liêng!
* Nghĩa trang Hàng Dương
TÌNH MẸ
Tuổi thơ ai chẳng bao lần
Bên thềm ngóng đợi bước chân mẹ về.
Trong đời ai chẳng từng nghe
Tiếng ru con giữa trưa hè nắng nôi.
Đêm đông lạnh giá run người
Võng đưa, mẹ vẫn à ơi...canh trường.
Quê nghèo một nắng hai sương
Tảo tần khuya sớm, dặm đường gieo neo.
Bóng cau đầu ngõ xiêu xiêu
Ngỡ như dáng mẹ chợ chiều năm xưa...
Hoàng hôn tựa cửa mong chờ
Mẹ đi, đi mãi, sao chưa thấy về?.
Xứ Nghệ, mùa Thu
CÂY BÀNG TRƯỜNG CŨ
Bao năm xa
Tôi lại trở về Trường
Nền lớp học xưa chỉ còn tàn vôi vữa
Gốc bàng già, chứng nhân một thưở:
Một ngày thu bom Mỹ giội bất ngờ
Giờ học văn Thầy bình giảng về thơ
Về tình yêu, về mùa xuân, cái đẹp…
Màn khói tan, cả khu trường khét lẹt
Mảnh bom văng cắm chi chít thân bàng.
Rồi những năm sơ tán xa trường
Sân trường xưa, chỉ cây bàng ở lại
Hết chiến tranh, chúng tôi đi xa mãi
Như cánh chim, mỗi đứa một phương trời.
Dẫu đạn bom, dẫu năm tháng dập vùi
Bàng vẫn thủy chung đứng canh nơi trường cũ
Như chiếc ô xanh giữa gió Lào, nắng lửa
Che một thời tuổi trẻ của chúng tôi.
Ôi! xao xuyến, bồi hồi...
Bên góc sân trường cũ
Cây bàng xưa vẫn còn
Màu xanh quên tuổi tác
Tán lá rộng xoe tròn
Vòng rễ gồng gân guốc.
Đã qua bao tháng năm
Bao vết thương thành sẹo
Đã qua bao mùa thi
Bao nhiêu lần giã biệt
Nhưng gốc bàng vẫn chờ
Như người thân da diết…
Trở lại trường, dưới tán bàng xanh biếc
Tôi gặp lại mình, đứa học trò nhỏ ngày xưa.
Hà Tĩnh, Thu 1980
NỖI NHỚ
Nhà thơ Đặng Hữu Trung
Có những lúc nỗi nhớ thoảng qua
Như cơn gió Nồm Nam quê mẹ
Dư vị sao ngọt ngào đến thế
- Mối tình đầu giữa anh và em.
Có những phút êm đềm, bình yên
Lòng bỗng dưng dạt dào nỗi nhớ
Khi nghĩ về quê hương, xứ sở
Đang cách xa thăm thẳm chân trời.
Sâu lắng và da diết khôn nguôi
Là nỗi nhớ anh em đồng đội
Những năm tháng đạn cày, bom dội
Chung chiến hào, sống chết bên nhau.
Nỗi nhớ nhung muôn sắc muôn màu
Lệ ứa canh khuya, mắt quầng đêm trắng
Là nỗi nhớ người yêu xa vắng
Ngày qua ngày cánh nhạn vẫn biệt tăm.
Lặng lẽ, âm thầm cùng với tháng năm
Nỗi nhớ bạn thân chưa lần gặp lại.
Và, nỗi nhớ bùng lên như lửa cháy
Khi con về vắng bóng mẹ yêu thương.
Wasington, D.C - Mátxcơva - Xứ Nghệ
BÂNG KHUÂNG
Ngập ngừng chén rượu chia tay
Trào dâng kỷ niệm tháng ngày đầy vơi
Ba năm đất bạn, quê người
Từng khi gian khó, ngọt bùi sẻ chia
Rồi đây, kẻ ở người về
Tay trong tay chẳng nói gì, bâng khuâng...
Đông Nga tuyết phủ trắng ngần
Cuối trời đất Việt mùa xuân đang về.
(Viết trước ngày rời nước Nga – 2011)
Đ.H.T