Lã Nguyên: Mùa Giáng sinh, nghĩ về sự phục sinh của trường phái Hình thức Nga - P 1
1. Sinh hạ – Trưởng thành- Tử nạn
Tôi có ba lí do để nghĩ về trường phái hình thức Nga vào tuần Giáng sinh này. Thứ nhất: Trường phái này được sinh hạ đúng vào một mùa Phục sinh, trước đêm Giáng sinh. Thứ hai: Phần di sản đến nay vẫn giữ nguyên giá trị của nó là hình thái học văn bản nghệ thuật và học thuyết về ý nghĩa cứu rỗi của “Lời”, về sự Phục sinh của tồn tại. Thứ ba: Nó được Phục sinh một cách mầu nhiệm sau khi bị đóng đinh câu rút và bị lãng quên liền liền mấy thập kỉ ngay trên quê hương mình.
Xin bắt đầu bằng câu chuyện về sự sinh hạ, trưởng thành rồi bị bức tử ở tuổi mười bảy của nó.
Ai cũng biết, “Trường phái hình thức Nga” hay “Chủ nghĩa hình thức Nga” là những khái niệm đầy tính ước lệ, không chính thức, được sử dụng để chỉ một khuynh hướng lí luận văn học hoạt động ở Peterburg và Moscow vào những năm đầu thế kỉ XX. Gọi đó là “trường phái” vì nó là một hiện tượng lịch sử, có quá trình hình thành và phát triển. Nó có những tổ chức nòng cốt như “câu lạc bộ”, “hiệp hội”, có chủ soái và số lượng hội viên được kết nạp, đăng kí hẳn hoi, có hội thảo, sinh hoạt học thuật, có tuyên ngôn với nhiều công trình chủ chốt thống nhất với nhau trong phương pháp luận nghiên cứu, có cơ sở vật chất để các thành viên in ấn, xuất bản công trình của mình… Nhưng trong điều kiện như ở nước ta hiện nay, chắc chắn, mọi ý đồ nghiên cứu một cách thấu đáo về trường phái này đều gặp muôn vàn khó khăn. Khó khăn không hẳn chỉ bởi thiếu nguồn tài liệu, mà chủ yếu là bởi, có những chuyện được ghi rành rành trong các pho từ điển đầy uy tín, được các nhân chứng là người trong cuộc ví như V. Shklovski, hoặc B.V.Tomashevski khẳng định chắc như đinh đóng cột, tưởng như thế là đã rõ, thế mà đến khi tìm hiểu, lại thấy mỗi tư liệu trình bày một phách, chẳng nguồn nào giống nguồn nào.
Chẳng hạn, danh tiếng của Trường phái hình thức Nga gắn liền với hoạt động của “Câu lạc bộ ngôn ngữ học Moscow” (MLK) và “Hội nghiên cứu ngôn ngữ thơ” (OPOJAZ). R. Jakobson nhận xét: “Theo tôi, câu lạc bộ ngôn ngữ Moscow là hiệp hội đáng kể nhất của các nhà ngữ văn học người Nga – xét cả ở sự toả sáng của các tài năng lỗi lạc, lẫn ảnh hưởng của nó (thường là trực tiếp và gián tiếp) tới sự phát triển của tư tưởng ngữ văn học (…). Đóng góp của Câu lạc bộ cho ngôn ngữ học và thi pháp học, cả ở đất nước Nga, lẫn trên phạm vi toàn thế giới, không có bất kì một hiệp hội nào có thể so sánh được”[1]. Tất nhiên, danh tiếng của “OPOJAZ” còn lớn hơn nhiều. “OPOJAZ” thường được đồng nhất với Trường phái hình thức Nga. Nhưng hai hiệp hội này được tổ chức vào năm nào, mỗi hiệp hội có bao nhiêu hội viên? Có thể dựng lại chính xác số phận lịch sử của các hiệp hội ấy hay không? Xin thưa, không dễ gì có lời giải đáp chính xác cho các câu hỏi ấy. Đúng là Câu lạc bộ ngôn ngữ Moscow (“MLK” – Московский лингвистический кружок) được thành thành lập theo sáng kiến của một số sinh viên ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Moscow. Vào cuối năm năm 1914, Viện sĩ F.E.Kors đã đệ trình lên Ban II của Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia bản điều lệ hoạt động của MLK. Nhưng phải đến ngày 16 tháng 2 năm 1915, Viện sĩ A.A. Sakhmatov mới kí quyết định về việc “tổ chức nhóm các nhà ngôn ngữ học trẻ tuổi hoạt động theo phương thức tự túc kinh phí nhằm nghiên cứu những vấn đề ngôn ngữ học, thi luận, thi pháp sáng tác ngôn từ dân gian”. Vậy thì, nên tính lịch sử hoạt động của MLK từ 1914, hay 1915? Viết về Câu lạc bộ ngôn ngữ Moscow, người ta thường chỉ biết một vị Chủ tịch duy nhất là R.O. Jakobson. Nhưng trong 10 năm tồn tại, sau Jakobson, MLK còn có 5 vị Chủ tịch khác: M.N. Peterson (từ cuối tháng Giêng đến tháng 9 năm 1920), A. A. Buslaev (đến tháng 10 năm 1922), G.O.Vinokur (đến tháng 3 năm 1923) và N.F. Jakovlev (đến tháng 11 năm 1924)[2]. .
Câu chuyện về “OPOJAZ” ở Peterburg cũng phức tạp như vậy. Chữ viết tắt “OPOJAZ” là một kết hợp từ hi hữu, tiêu biểu cho thi pháp viết tắt của chủ nghĩa vị lại, chỉ thấy ở Nga vào những năm 20 của thế kỉ trước. Theo nguyên tắc viết tắt của chủ nghĩa vị lai, chữ viết tắt phải là một kết hợp từ có thể làm người ta quên đi cụm từ hoặc mệnh đề được nó thay thế, nhưng dứt khoát phải tạo được “cảm giác về âm thanh của lời nói”. Môn đệ của chủ nghĩa vị lại rất dị ứng với lối viết tắt theo kiểu lắp ghép giản đơn phụ âm đầu của các từ, ví như “MGU” (“МГУ” – Московский государственный университет – Đại học Tổng hợp Quốc gia Moscow), hoặc “SSSR” (СССР – Союз Советских Социалистических Республик – Liên bang các nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết). Thi pháp của chủ nghĩa vị lai đòi hỏi mỗi chữ viết tắt phải là một kết hợp từ ngân vang, thể hiện vẻ đẹp của “mĩ học âm thanh”, ví như “LEF”, (“ЛЕФ” – Левый фронт искусства – Nghệ thuật cánh tả), “Kubuch” (“КУБУЧ” – Комиссия по улучшению быта ученых – Uỷ ban cải thiện đời sống học giả), hoặc “AvtoDor” (“АвтоДор” – Общество содействия развитию автомобильного транспорта, тракторного и дорожного дела – Hội hỗ trợ phát triển giao thông cơ giới, ngành máy kéo và đường bộ)… Nếu không có từ điển tra cứu, nhìn vào chữ viết tắt, người ta khó đoán ra những cụm từ hoặc mệnh đề được thay thế. Cho nên, ngay cả những người trong cuộc, có quan hệ trực tiếp với Trường phái hình thức Nga cũng đưa ra nhiều cách giải thích khác nhau về chữ “OPOJAZ”. Iu.N. Tynhianov và L.Ghinzburg cho rằng, “OPOJAZ” là chữ viết tắt của “Oбщество изучения поэтичкского языка” -“Hội nghiên cứu ngôn ngữ thơ”[3]. Nhưng đến năm 1960, một sáng lập viên của “OPOJAZ” là V. Shklovski lại cho rằng, nó là chữ viết tắt của “Hội nghiên cứu lí luận ngôn ngữ thơ” (“Общество изучения теории поэтического языка”)[4]. Ngay cả thời điểm thành lập “OPOJAZ”, nếu đọc tài liệu của những người đương thời và các nhà nghiên cứu hiện nay, ta thấy, đó vẫn còn là câu chuyện rất mù mờ. Bách khoa Xô Viết Đại Từ điển cho rằng “OPOJAZ” thành lập vào quãng 1916 – 1919[5]. Từ điển Bách khoa văn học ghi thời gian thành lập “OPOJAZ” là 1916 – 1918[6]. Từ điển Bách khoa Ngôn ngữ học chỉ ra chính xác, thời điểm ấy là năm 1916[7]. Theo hồi ức của R. Jakobson thì “việc quyết định thành lập hiệp hội đã được thông qua trong một bữa ăn trưa tại căn hộ của O.M. Brik vào tháng 2 năm 1917[8]. Trong cuốn sách cuối cùng của đời mình, cuốn Về lí thuyết văn xuôi, in năm 1984, V.B. Shoklovski lại đưa ra ý kiến khác: “Cần phải kể lại chuyện về một hiệp hội văn học không lớn, năm 1914 đã in một cuốn sách mỏng tại nhà in Sokolinski, một nhà in bé tí tẹo đặt ở số 33, phố Nadezdinski. Có lẽ, đó chính là điểm khởi đầu của OPOJAZ”[9].

PGS.TS Lã Nguyên - La Khắc Hoà
Do từ năm 1920, R.O. Jakobson đã rời nước Nga, đến sống ở Estonia, sau đó qua Tiệp Khắc, nên trụ cột của của Trường phái hình thức Nga là bộ ba Iu.N. Tynianov (1894 – 1943), B. Eikhenbaum (1886 – 1959), V.B. Shklovski (1893 – 1984). Quy tụ xung quanh bộ ba ấy là một đội ngũ học giả đầy tài năng, gồm những nhà lí luận văn học và văn học sử, phê bình văn xuôi và phê bình thơ, ngôn ngữ học và folklore học. Riêng Câu lạc bộ ngôn ngữ Moscow đã có đến 51 thành viên chính thức, 3 thành viên danh dự và 12 thành viên – cộng tác viên[10]. Trong số đó có nhiều tên tuổi lớn, như F.N. Afremov, P.G. Bogatyrev, А. А. Buslaev, S.S. Rogozin, P.P. Svesnhicov, R.O. Jakobson, N.F. Jakovlev, V.K. Porzezinski, D.N. Usakov, N.N. Durnovo, S.I. Bernstein, M. Bondi, O.M. Brik, N.N. Volkov, N.I. Zinkin, V.M. Jirmunski, S.O. Karsevski, M.M. Kenhigsberg, A.M. Peskovski, E.D. Polivanov, A.I. Romm, Iu.M. Sokolov, B.V. Tomasevski, R.O. Sor, B.I. Jarkho… Theo danh sách đăng kí tại Uỷ ban Xô Viết Petrograd năm 1921, “OPOJAX” có 14 thành viên, do V.B. Shklovski làm Chủ tịch, B.M. Eikhenbaum – đồng Chủ tịch, Iu.N. Tynhianov – Thư kí, sau đó là V.M. Zirmunski, L.V. Serba, S.I. Bernstein, B.V. Kazanski, L.P. Jakubinski, A.L. Veksler, A.L. Slonhimski, Vl.B. Shklovski, E.G. Polonskaja, V.P. Chovin, V.G. Kordi[11].
Trường phái hình thức Nga có bao nhiêu tuyên ngôn khoa học? Đó cũng là một câu chuyện rất dài. Những năm 20 của thế kỉ trước là thời đại cách mạng. Thời ấy, mọi khuynh hướng, trào lưu, trường phái, từ văn nghệ cho đến khoa học, triết học, tư tưởng, đều có tham vọng sáng tạo ra cái mới, làm nên cuộc cách mạng thực sự trong mỗi lĩnh vực hoạt động. Các trường phái, trào lưu, khuynh hướng luôn tìm cách tự khẳng định bản chất cách tân của mình một cách quyết liệt. Nó tự khẳng định bằng những tuyên ngôn và những cuộc tranh luận nảy lửa với các đối thủ của mình. Lúc đầu, người ta xem các văn bản như Sự phục sinh của lời, Nghệ thuật như là thủ pháp (V. Shklovski), “Áo choàng” của Gogol được làm như thế nào (B.M. Eikhenbaum) là những tuyên ngôn của Trường phái hình thức Nga. Những văn bản ấy tuyên ngôn cho tư tưởng lí thuyết, quan niệm về đặc trưng của văn nghệ, về bản chất, chức năng của khoa học ngữ văn, về phương pháp nghiên cứu khoa học. Các nhà hình thức luận không chỉ tuyên ngôn lí thuyết, mà còn vận dụng lí thuyết một cách tài ba vào thực nghiên cứu, tạo ra một hệ thống thao tác tiếp cận các hiện tượng nghệ thuật mang tính khoa học cao, đưa ngữ văn học ngày càng xích lại gần với các khoa học chính xác. Và như thế, Trường phái hình thức Nga không phải là hiện tượng nhất thành bất biến, mà luôn luôn vận động, tiến hoá, dù chỉ tồn tại trong một thời gian rất ngắn. Nó không chỉ tuyên ngôn cho sự khởi đầu của một trường phái, mà còn có những tuyên ngôn giống như sự tổng kết độc đáo phần tinh hoa và sự tiến hóa của các tư tưởng khoa học cốt lõi. Cho nên, danh sách các văn bản được xem là tuyên ngôn của Trường phái hình thức Nga, càng về sau càng được mở rộng thêm. Có thể tìm thấy trên một Website bằng tiếng Nga danh sách những công trình như sau được xem là tuyên ngôn của các nhà hình thức luận:
– V. Skhlovski: 1. Nghệ thuật như là thủ pháp; 2. Quan hệ giữa các thủ pháp xây dựng truyện kể với các thủ pháp chung của phong cách;
– E.D. Polivanov: Nhân bàn về “các động tác âm thanh” của tiếng Nhật
– L.P. Jakubinski: 1. Sự tích tụ của các âm trơn cùng loại, 2. Về các âm thanh của ngôn ngữ thơ;
– O.M. Brik: Điệp âm, tiết tấu và cú pháp;
– B.M. Eikhenbaum: “Áo choàng” của Gogol làm thế nào?
– R. Jakobson: 1. Về câu thơ Tiệp trong sự đối sánh với câu thơ Nga, 2. Thơ hiện đại. Phác thảo đầu tiên: Tiếp cận Khlevnhikov;
– Iu.N. Tynhianov: 1. Sự thật văn học, 2. Về sự tiến hoá của văn học;
– Iu.N. Tynhianov, R. Jakobson : Những vấn đề nghiên cứu văn học và ngôn ngữ[12].
Những tuyên ngôn nói trên đã trở thành “danh thiếp”, thành “carte de visite” làm nên danh tiếng của Trường phái hình thức.
Tôi nói dài dòng như thế về chuyện tổ chức và tuyên ngôn khoa học của trường phái hình thức Nga là muốn nhấn mạnh tới sự phức tạp của các nguồn tư liệu mà bất cứ người nghiên cứu nào cũng phải đính đến. Các nguồn tư liệu nói về thời điểm sinh hạ của trường phái này cũng phức tạp như vậy. Boris Victorovich Tomasevski, nhà hoạt động nổi tiếng của Trường phái hình thức viết: “Trường phái hình thức xuất phát từ đâu? Từ bài báo của Belyi, từ buổi seminaire của Vengerov, hay từ hội trường Tenhisevski mà cánh vị lai hò reo ầm ỹ dưới sự chủ toạ của Baudouin de Courtenav”[13]. Tomaesevski đặt ra những câu hỏi như thế chứng tỏ, về cột mốc đánh dấu điểm khởi đầu lịch sử của Trường phái hình thứ Nga, ý kiến của giới nghiên cứu không phải lúc nào cũng thống nhất. Có người chọn năm 1914, vì cuốn Sự phục sinh của lời của V. Shklovski – cuốn sách được xem là tuyên ngôn đầu tiên của trường phái hình thức Nga – xuất bản vào năm ấy. Tức là bắt đầu từ năm 1914, trường phái hình thức Nga chính thức nhận được “giấy chứng sinh”. Nhưng đa số các nhà nghiên cứu Nga lại chọn năm 1913, vì ngày 23 tháng 12 năm 1913, tại tửu điếm “Chó rông” (“Бродячая собака”), nơi sinh hoạt của giới văn nhân – nghệ sĩ Saint-Peterburg, V. Shklovski đã đọc bài phát biểu nổi tiếng: Vị trí của chủ nghĩa vị lai trong lịch sử ngôn ngữ. Nội dung của bài phát biểu này chính là hạt nhân của tuyên ngôn nghệ thuật trong Sự phục sinh của lời. Cho nên, nước Nga mới tổ chức Hội thảo quốc tế kỉ niệm “100 năm trường phái hình thức” tại Moskva vào năm 2013 (25/8/), chứ không phải 2014.
Trường phái hình thức Nga sinh hạ vào mùa Phục sinh, ngay trước đêm Giáng sinh (23.12.1913). Tuyên ngôn hoạt động của của họ nói về một sự Phục sinh. Đó chẳng phải là điều lí thú để ta suy ngẫm về học phái này trong mùa Giáng sinh hay sao?
Khoảng trên dưới 10 năm, giai đoạn 1916 – 1928, là thời kì hoàng kim của Trường phái hình thức Nga. Hầu hết những công trình xuất sắc nhất của họ được hoàn thiện và xuất bản ở giai đoạn này. Xin kể một số công trình của của các nhân vật chủ chốt:
– B.M. Eikhenbaum: Karamzin (1916), Những bài thơ mới của N.G. Gumilev (1916), Balmont: Thơ như là pháp thuật thần thông (1916), Tâm hồn Moscow (1917), Giai điệu câu thơ trữ tình Nga (1922), Tolstoi thời trẻ (1922), Anna Akhmatova.- Kinh nghiệm phân tích (1923), Lermontov: Kinh nghiệm đánh giá lịch sử – văn học (1924), Xuyên qua văn học (1924), Văn học: Lí luận. Phê bình. Tranh luận (1927), “Áo choàng” của Gogol được làm như thế nào (1919), Số phận Blok (1921), Tiểu thuyết trữ tình (1921), Nhekrasov (1921), Đường đến với văn xuôi của Puskin (1923), Những khuynh hướng phong cách cơ bản trong ngôn ngữ của Lenin (1924), O. Henri và lí luận tiểu thuyết (1925), Lí thuyết của phương pháp hình thức (1925), Văn học: Lí luận. Phê bình. Tranh luận (1927), Nhà thơ – nhà báo (1928)…
– Iu.N.Tynhianov: Dostoievski và Gogol ( Về lí thuyết giễu nhại) (1921), Các dạng thức câu thơ của Nhekrasov (1921), Blok (1921), Về kết cấu Evgeni Onegin (1921), Oda như một thể loại (1922), Vấn đề về Tchiutsev (1923), Vấn đề ngôn ngữ thơ (1924), Sự thật văn học (1924), Điện ảnh – lời – âm nhạc (1924), Cái hôm nay của văn học (1924), Về dàn dựng sân khấu (1926), Về truyện kể và tình tiết trong điện ảnh (1926), Về các nguyên lí điện ảnh (1927), Về sự tiến hoá của văn học (1927), Những vấn đề về nghiên cứu văn học (1928), Về giễu nhại (1929), Tuyển tập Cánh nệ cổ và các nhà cách tân (1929 – tập hợp các công trình: Puskin và Heine (1922), Puskin và Tchiutsev (1923), Những kẻ lỗi thời và Puskin (1926), Puskin (1928)…
– V.B. Shklovski: Sự phục sinh của lời (1914), Potebnhia (1916), Về thơ và ngôn ngữ bí hiểm (1916), Nghệ thuật như là thủ pháp (1917), Triển khai truyện kể (1921), “Tristram Shandy” của Sterne và lí luận tiểu thuyết (1921), Văn học và điện ảnh (1923 – Tuyển tập), Về lí lhuyết văn xuôi (1925 – Tuyển tập, trong đó có những bài nổi tiếng, như Văn học ngoà truyện kể, Cấu tạo truyện ngắn và tiểu thuyết, Kĩ thuật của nghề văn (1927)
– V.V. Vinogradov: Những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực ngữ âm thổ ngữ bắc – Nga (1919), Phương pháp nghiên cứu bản thảo như là dữ liệu xây dựng khoa học ngữ âm lịch sử tiếng Nga trong các công trình của Viện sĩ A.A. Sakhmatov (1920), Truyện kể và kết cấu truyện “Cái mũi”, “Khởi đầu” (1921), Phong cách trường ca Peterburg “Người giống như lột” (1922), Về các nhiệm vụ của phong cách học (1923), Thơ Anna Akhmatova: Phác thảo phong cách (1925), Gogol và trường phái tự nhiên (1925), Jules Janin và Gogol (1925), Vấn đê kể chuyện trong phong cách học (1926), Phác hoạ phong cách Gogol (1926), Lịch sử ngữ âm tiếng Nga văn học (1927), Tiến hoá của chủ nghĩa tự nhiên. Gogol và Dostoevski (1929), Về văn xuôi nghệ thuật (1930).
Ngoài hoạt động nghiên cứu, nhiều thành viên của Trường phái hình thức Nga còn hoạt động sư phạm, giảng dạy trong các học viện, các trường đại học và tham gia sáng tác văn học, ví như V. Shklovski và Iu. Tynianov viết tiểu thuyết, O. Brik là tác giả sân khấu và kịch bản. Thông qua giảng dạy và lãnh đạo sinh hoạt séminaire, các vị chủ soái như V.B.Shklovski và B. Eikhenbaum, Iu. Tynhianov đã đào tạo cả một đội ngũ kế cận làm thành thế hệ được gọi là “phái hình thức trẻ”. Nhiều người trong số họ đã thành danh, ví như L. Ghinburg, V. Hofman, N. Stepanov, B. Bukhstav. Nhật kí đề ngày 26 tháng 12 năm 1924 của B. Eikhenbaum có đoạn ghi: “Rất vui vì buổi sémineire ở nhà. Nhóm này rất khá. Tham luận của Barmin về nghệ thuật chơi chữ chẳng xoàng chút nào. Stepanov, Skipina, Bukhstav, Gurevnin, Ghinburg – bọn họ là một lực lượng rất mạnh”[14].
Tuy nhiên, ngay từ những năm 20, Trường phái này đã chịu sự phê phán rất nặng nề. Nó bị phê phán bởi nhiều đối thủ và địch thủ. Cánh khoa học hàn lâm “già nua”, các nhà xã hội học hiện đại, kể cả M. Bakhtin… đã phê phán Trường phái hình thức như là phê phán một “đối thủ” đáng nể trọng. Các nhà lí luận Mac xit nhìn thấy thấy ở Trường phái hình thứ một “địch thủ” nguy hiểm cần phải tiêu diệt. Cho nên, sự phê phán dành cho trường phái hình thức từ phía các nhà lí luận Mac xit, đứng đầu là L. Troski, N. Bukharin, A.V. Lunatsharski, G.E. Gorbatzev, N.S. Derzavin, M.A. Jakovlev, càng về sau càng trở nên gay gắt, quyết liệt.
Vào đầu những năm 20, đòn phê phán của phái Mac xit được tung ra dưới hình thức luận chiến. Trường phái hình thức của thi ca và chủ nghĩa Mác của L. Troski được xem là bài luận chiến “mềm mỏng” nhất của cánh Mac xit thời ấy. Lần đầu tiên bài báo được công bố trên tờ “Pravda” (“Правда” – “Sự thật”), số 166, ra ngày 26 tháng 7 năm 1923. Về sau nó được in lại trong tập Văn học và cách mạng, xuất bản năm 1924. Nói đó là bài viết “mền mỏng” vì ở đây L. Troski thừa nhận giá trị khoa học trong các công trình nghiên cứu riêng lẻ của Trường phái hình thức. Ông viết: “Trường phái hình thức là cái gì? Cứ như Shklovski, Zirmunski, Jakobson và một số người khác trình bày thì (…) trường phái này xem nhiệm vụ của mình chỉ gói gọn trong việc phân tích (thực chất là miêu tả và nửa thống kê) những đặc điểm từ nguyên và cú pháp của các tác phẩm thi ca, tính đếm các nguyên âm, phụ âm, âm tiết, các hình dung từ được lặp đi lặp lại. Công việc mang tính cục bộ được các nhà hình thức luận, chẳng “theo hàm đố nào cả”, gọi là khoa học của thi ca hoặc thi pháp luận ấy hiển nhiên là cần thiết và có ích nếu như hiểu được đặc điểm bộ phận, có tính chất bản nháp, tính chất hỗ trợ – trù bị của nó”.
Tuy giọng điệu “mềm mỏng” như thế, nhưng bài viết của Troski vẫn là bản tuyên chiến, lên tiếng thách đấu. Các nhà hình thức luận tuyên ngôn cho một quan niệm về nghệ thuật và về khoa học văn học. Troski lại quyết đấu với họ trên trận địa giai cấp luận, tư tưởng hệ. Từ trận địa ấy, mở đầu bài viết, Troski xếp ngay Trường phái hình thức vào loại địch thủ nguy hiểm nhất để ra đòn theo kiểu “đánh một cú chết tươi”: “Nếu không tính những âm vang héo hắt của các hệ thống tư tưởng thời tiền cách mạng, thì có thể nói, lí thuyết duy nhất chống lại chủ nghĩa Mác trên đất nước Xô Viết trong những năm gần đây chính là lí thuyết hình thức của nghệ thuật. Điều thậm nghịch lí là ở chỗ, chủ nghĩa hình thức Nga gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa vị lai Nga, trong khi chủ nghĩa vị lai ít nhiều đã hàng phục chủ nghĩa cộng sản về mặt chính trị, thì chủ nghĩa hình thức lại tung hết sức lực để chống chủ nghĩa Mác về phượng diện lí luận”. Trong suốt bài viết, cũng như các nhà lí luận Mac xit khác, Troski dành cho Trường phái hình thức lối diễn đạt bằng những từ ngữ có tính chất hạ nhục. Ông gọi Trường phái hình thức là “đứa trẻ đẻ non cực kì vênh váo”, “đứa trẻ đẻ non đem mổ ra để nhồi sách làm tiêu bản của chủ nghĩa duy tâm đem ứng dụng vào các vấn đề nghệ thuật”. Ông khép lại bài viết bằng kết luận: “Tất cả các nhà hình thức đều mang đậm dấu ấn của chủ nghĩa sùng đạo chín vội. Họ là môn đồ của thánh Gioan: với họ, “khởi thuỷ là Lời của Chúa”. Còn với chúng ta, khởi thuỷ là hành động. Lời chỉ hiện ra sau nó giống như cái bóng âm thanh của nó mà thôi”.
Vào những năm 20, khi những cuộc luận chiến về “phương pháp hình thức” bước vào hồi cao trào, Victor Shklovski đã nêu câu hỏi thẳng thừng với cánh Mac xit như thế này: “Các vị có quân đội và tàu chiến, chúng tôi thì chỉ vỏn vẹn có bốn người. Vậy chẳng hiểu quý vị còn lo lắng nỗi gì?”[15]. Theo I. Sironhin, có cơ sở để khẳng định, khi nói “quân đội và tàu chiến”, cái mà Shklovski muốn nhắm tới không phải là nhà nước Xô viết nói chung, mà là cái chiến dịch được triển khai rất rầm rộ nhằm chống lại Trường phái hình thức, đồng thời, ông cũng “muốn ám chỉ một vị đại biểu của cánh Mac xit trong những năm ấy là L.D. Troski”[16]. Đúng là Troski và cánh Mac xit không thể không “lo lắng” trước ảnh ngày càng mạnh mẽ của Trường phái hình thức. Cho nên, từ bài báo của L. Troski, người đọc ngửi thấy mùi khói lửa, súng đạn của một cuộc chiến tranh lãnh thổ nhằm giành quyền kiểm soát để thao túng đời sống xã hội ở nước Cộng hoà Xô viết. Không thể hạ gục ngay địch thủ chỉ bằng một bài báo, Troski kêu gọi khống chế tầm ảnh hưởng của nó: “Hệ thống phương pháp của chủ nghĩa hình thức nếu được giới hạn trong những khuôn khổ hợp lí sẽ giúp ích cho việc giải thích những đặc điểm nghệ thuật và tâm lí của hình thức văn học”[17]. Nói trắng ra, chủ nghĩa hình thức chỉ đắc dụng khi cần giải thích một số bình diện của hình thức nghệ thuật, nhưng nó tuyệt nhiên không được xâm phạm tới các lĩnh vực khác, nhất là lĩnh vực nghiên cứu các hiện tượng xã hội.
Chỉ mấy năm sau, tất cả đều thay đổi. Năm 1927, L.Troski bị khai trừ đảng, năm 1929 bị trục xuất khỏi Liên Xô, năm 1932 bị tước quyền công dân Xô viết và đến 1934, từ điển Bách khoa văn học xếp ông vào khuynh hướng “nghiên cứu văn học melsevik ”[18] và Trường phái hình thức thì bị tước sạch mọi quyền tồn tại. Ngày 6 tháng 3 năm 1927, suốt 4 tiếng đồng hồ, từ 10 giờ tối đến 2 giờ sáng, tại Lễ đường Tenhisevski ở Leningrad đã diễn ra một cuộc tranh luận sôi nổi giữa cánh Mac xit và Trường phái hình thức. B.V. Tomasevski, G.E. Gorbatzev, V.B. Shklovski, N.S.Derzavin, B.M. Eikhenbaum, M.A. Jakovlev, Iu.N. Tynhianov và nữ nhà văn L.N. Seifullina đọc tham luận trong tiếng vỗ tay, nhiều khi có cả tiếng hò reo, la hét huyên náo. Cuộc tranh luận được xem là một trong những sự kiện thuộc loại quan trọng nhất của thời ấy. B. Eikhenbau gọi đó là “buổi tối lịch sử mà sau này người ta sẽ còn nhớ mãi”. Nhưng đây cũng là lần cuối cùng, Trường phái hình thức được tranh luận công khai với các lí luận gia Mac xit theo kiểu mặt đối mặt, ăn miếng trả miếng, ai cũng được quyền tự do trình bày quan điểm cá nhân. B.M. Eikhenbaum tuyên bố: “Các vị Mac xit muốn hạ bệ chúng tôi. Nhưng thật khó làm được điều ấy chỉ trong một buổi tối, huống hồ sau lưng chúng tôi còn có cả 10 năm nghiên cứu khoa học”. Nhưng cũng ngay tại cuộc hội thảo này, B.V. Tomasevski đã đưa ra nhận xét: “Cần phải nói, chủ nghĩa hình thức như một trường phái, bây giờ không còn tồn tại nữa”[19]. Sau đó, các thành viên chủ chốt của Trường phái hình thức, như Shklovski, Eikhenbaum, thường xuyên bị theo dõi, truy bức. Nhật kí đề ngày 22 tháng 3 năm 1927 của Eikhenbaum có đoạn: “ Vụ Dreyfus[20] đang được giăng ra. Người ta đổ về Moscow mang theo cáo trạng và yêu cầu trấn áp”. Tuy trấn áp cá nhân không xẩy ra, nhưng chính quyền đã tìm đủ mọi cách đưa môn văn học ra khỏi chương trình đào tạo của Đại học Tổng hợp Peterburg, buộc những nhân vật chủ chốt như Tynhianov, Eikhenbaum thôi việc khiến Trường phái Hình thức phải tan rã. Ngày 8 và 9 tháng 5 năm 1927, Eikhenbaum ghi vào nhật kí: “Đại học Tổng hợp buộc phải giải tán Ban văn học – việc giảng dạy môn văn sẽ tập trung vào Moscow, chỗ chúng ta chỉ còn lại ngôn ngữ học thôi. Rõ ràng, công việc của tôi ở Đại học Tổng hợp thế là đã chấm hết”. “Mình đã chán ngấy tất cả những chuyện đó. Chỉ muốn sống sao cho ra con người… Cuộc họp của Hội đồng Đại học Tổng hợp vừa kết thúc – đã có quyết định: giải tán Ban văn. Đó chính là kết quả của cuộc tranh luận”[21].
Việc B.M. Eikhenbaum và Iu.N. Tynhianov bị đình chỉ công tác giảng dạy đại học vào năm 1927 không chỉ là “tai nạn nghề nghiệp” mang tính chất cá nhân, mà còn là sự kiện quan trọng liên quan đến số phận của Trường phái hình thức Nga. Từ năm 1928, các nhà hình thức luận không mấy khi dám công khai bảo vệ xác tín, họ chấp nhận phương pháp xã hội học, thậm chí, Shklovski còn nói tới khả năng tiến dần tới mĩ học mác xit. Tháng Giêng năm 1930, V.B. Shkolovski cho đăng trên tờ Báo văn học bài Tượng đài kỉ niệm một sai lầm khoa học. Bài báo không chỉ là bước đi đầu tiên của V. Sklovski trong quá trình thoả hiệp với những luật lệ chính thống đã được thiết lập trong đời sống văn học Xô viết, mà còn đánh dấu sự tan rã do bị bức tử của Trường phái hình thức Nga.
Suốt 30 năm, kể từ khi Shklovski công bố bài Tượng đài kỉ niệm một sai lầm khoa học cho tới đầu những năm 60 của thế kỉ trước, Trường phái hình thức bị bỏ quên ngay tại quê hương mình. Ở trên chúng tôi đã nhắc tới việc B.V.Tomasevski bị đuổi khỏi Đại học Tổng hợp Leningrad vào năm 1931 và mãi 29 năm sau, năm 1959, giới nghiên cứu lại mới được nhìn thấy cuốn Lí luận văn học… của ông. Dĩ nhiên, cuốn sách của Tomasevski không phải là trường hợp ngoại lệ. Trước những năm 60, hầu như người ta không mấy khi nhắc tới các nhà hình thức luận. Nếu có ai đó còn nhắc tới hệ thống quan niệm văn học, hệ thống khái niệm, phạm trù và cả hệ thống phương pháp, thao tác phân tích văn bản nghệ thuật của họ, thì chủ yếu chỉ là để nhằm mục đích phê phán.
(Còn nữa)
[1] R.O. Jakobson – Câu lạc bộ ngôn ngữ Moscow. Tạp chí “Philologica”, 1996, T.III, № 5/7, tr.361.
[2] Về quá trình thành lập “MLK”, có thể xem: R.O. Jakobson – Tlđd, tr. 361 – 379.
[3] Xem: Iu.N. Tynhianov.- Thi pháp. Lịch sử văn học. Điện ảnh.- M., 1977, tr. 504;
Ghinzburg.- Về cái cũ và cái mới.- M., 1982, tr. 52.
[4] Dẫn theo: I. Sironhin:- OPỌAZ.- Nguồn: http://www.opojaz.ru/main/aboutopojaz.html
[5] Nguồn:http://www.cultinfo.ru/fulltext/1/001/008/084/623.htm.
[6] Từ điển Bách khoa Văn học.- Nxb. “Bách khoa Xô Viết”, M., 1987.
[7] Từ điển Bách khoa Ngôn ngữ học.- Nxb “Bách khoa Xô Viết”, M., 1990
[8] Xem: Iu.N. Tynhianov.- Thi pháp. Lịch sử văn học. Điện ảnh.- Tlđd, tr. 504.
[9] V.B. Shklovski.- Về lí thuyết văn xuôi.- Nxb “Nhà văn Xô Viết”, M., 1984.
[10] Danh sách thành viên của “MLK”, có thể xem: Viện Ngôn ngữ Nga. Ngữ văn học (?РЯ.Ф), số 20. Hoặc xem: R.O. Jakobson. Câu lạc bộ ngôn ngữ Moscow.- Tạp chí “Philologica”, 1996, T.III, № 5/7, tr.361.
[11] Lưu trữ hiện còn giữ được hai bản danh sách thành viên của OPOJAZ được đăng kí chính thức vào thời kì đầu của Chính quyền Xô Viết. Ở trên là bản danh sách thứ hai. Bản danh sách thứ nhất được công bố trên báo Đời sống nghệ thuật số 273, ngày 21 tháng 10 năm 1919, theo đó, OPOJAZ chỉ có 10 thành viên: S.I. Bernstein, A.L. Veksler, B.A. Larin, V. Pjast, E.G. Polonskaja, A.I. Piotrovski, M.L. Slonhimski, B.M. Eikhenbaum, Vl.B. Sklovski, L.P. Jakubinski. Xem:I. Sironhin.- OPOJAZ.- Nguồn: http://www.opojaz.ru/main/aboutopojaz.html
[12] Tuyên ngôn của OPOJAZ. Nguồn:http://www.opojaz.ru/manifests/index.html
[13] Dẫn theo Vadim Rudnhev: Trường phái hình thức.- Nguồn: http:// www. Bestreferat.ru/referat-72931.html.
[14] Dẫn theo: Denis Ustinov.- Chủ nghĩa hình thức và phái hình thức trẻ.- “NLO”, 2001, Số 50.
[15] Dẫn theo: L. Ghinzbur.- Thử nghiệm thực hành.- Riga, 1991; Tr. 146
[16] Xem: Igor Sironhin.- Lời mở đầu.- Trong: Lev Trotzki.- Trường phái hình thức của thơ và chủ nghĩa Mác (Trích “Văn học và cách mạng”, 1923).- Nguồn: http:// www. Opojaz.ru/index.html.
[17] Lev Troski.- Trường phái hình thức của thi ca và chủ nghĩa Mác. – Trong sách Văn học và cách mạng.- M., 1924, tr.130 – 145. Cũng có thể tìm thấy bài viết trên Website OPOJAZ – Dữ liệu – Văn liệu – Bản in , nguồn: http://www. Opojaz.ru/index.html. Chúng tôi trích dẫn theo nguồn tài liệu này.
[18] Xem: Bách khoa văn học.- T.7; M., 1934, Stb. 163 -190.
[19] Xem: Tư liệu về cuộc tranh luận: “Chủ nghĩa Mác và phương pháp hình thức”.- NLO, số 50, năm 2001. Nguồn: http://magazines.russ.ru/nlo/2001/50/disp.html.
[20] “Vụ Dreyfus” là vụ án buộc tội viên sĩ quan người Do Thái là A. Dreyfus (1859 -1935) thuộc Bộ Tổng tham mưu quân đội Pháp làm gián điệp cho Đức xẩy ra vào năm 1894. Đó là vụ án được giới quân sự phản động chóp bu bịa ra trong cuộc đấu tranh chính trị tàn khốc ở Pháp vào những năm 90 của thế kỉ XIX. Nhắc tới vụ án này, Eikhenbaum muốn ám chỉ “vụ Trường phái hình thức” ở Liên Xô thời ấy. Xem: Tư liệu về cuộc tranh luận: “Chủ nghĩa Mác và phương pháp hình thức”.- NLO, số 50, năm 2001.
[21] Xem: Tư liệu về cuộc tranh luận: “Chủ nghĩa Mác và phương pháp hình thức”.- Tlđd