Thác lời con gái phường vải gửi trai làng nón Tiên Điền
[22.06.2011 21:52]
Nguyễn Huy Quýnh (1734 - 1786) thuộc thế hệ thứ 10 của dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu (NHTL), sinh ngày 19 tháng Hai năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức năm thứ 3 (1734) đời vua Lê Thuần Tông, húy là Nham, khi làm quan đổi là Trị, tên chữ là Duy Nham, hiệu Dần Phong, tại làng Trường Lưu nay là xã Trường Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, trong một gia đình nhiều đời khoa bảng.
Năm Nhân Thìn (1772), ba mươi chín tuổi, Nguyễn Huy Quýnh đỗ Đệ tam giáp Tiến sỹ đồng xuất thân thứ 5 và bắt đầu tham gia quan trường với chức Cấp sự trung Hộ khoa, rồi Giám sát ngự sử xứ Sơn Nam.
Năm Giáp Ngọ (1774), ông cùng nhiều người thân trong nhà như anh là Nguyễn Huy Oánh, cháu là Nguyễn Huy Tự, tham gia cuộc Nam chinh, giữ chức vụ Kiêm lí lương hướng nhung vụ. Đầu năm Ât Mùi (1775) sách Cương mục chép: chúa Trịnh sau lúc đóng quân ở Kỳ Anh sai ông mang vàng bạc vào tặng cho Hoàng Ngũ Phúc và quân sĩ đóng ở Thuận Hóa(2).
Cùng năm đó ngày 12 tháng Hai, mẹ đích ông là bà Phan Thị Trừu mất, ông xin về cư tang và tham gia dạy học ở Trường Lưu.
Năm Đinh Đậu (1777) hết tang phục, ông được ban chức Nhập thị nội giảng, sau khi dâng lên Chúa bài thơ nghìn chữ được thăng chức Hàn lâm viện Hiệu thảo, và năm sau 1778, thăng làm Đốc đồng xứ Sơn Nam. Thời gian này ông tham gia đánh dẹp “giặc bể”. Năm 1779 làm Giám khảo trường thi Thanh Hóa. Năm Tân Sửu (1781) làm quan Trực giảng ở Quốc Tử Giám, tháng 6 đi khảo sát tình hình ở Sơn Tây Hưng Hóa, tháng Mười ngày Hai mẹ đẻ ông là bà Trần Thị Cung mất, ông về cư tang ở Trường Lưu.Thời gian này Trường Lưu với Phúc gang thư viện là nơi nhiều danh sĩ qua lại, nhiều người ở các nơi về học, và Nguyễn Huy Quýnh tham gia giảng dạy ở đây.
Tháng 10 năm Giáp Thìn (1784) hết tang phục, Nguyễn Huy Quýnh lại được cử làm quan Trực giảng ở Quốc Tử Giám, năm sau thăng Hàn lâm Đãi chế, hành Đốc thị Thuận Quảng, Đề đốc học chính, Kiêm lí lương hướng ở Thuận Hóa.
Khoảng một năm, ngày 10 tháng Sáu năm Ât Tỵ (1785) ông mất ở nhiệm sở, thi hài đưa về an táng ở cánh đồng thuộc thôn Đồng Tây, làng Gia Hanh, xã Bạt Trạc, sau con cháu chuyển về xã Đức Dũng rồi lại chuyển về núi Phượng Lĩnh trong lăng Thám hoa Nguyễn Huy Oánh.
Theo giai thoại, Nguyễn Du có quen một cô gái ở làng Trường Lưu. Một đêm nọ sang chơi, sau đó không sang nữa, khiến cô gái nọ ốm tương tư và bỏ luôn nghề kéo sợi. Cô gái này sau nhờ Nguyễn Huy Quýnh làm bài thơ trên gửi cho Nguyễn Du
Tảng mai Hầu trở ra về Hồn tương tư vẫn còn mê giấc nồng. Cơi trầu chưa kịp tạ lòng, Tỉnh ra đã cách non sông mấy vời. Trời làm chi cực bấy trời Cơi trầu này để còn mời được ai ? Tím gan đổ hắt ra ngoài, Trông theo truông Hống, đò Cài thấy đâu. Khi lên, đổ rối cho nhau, Khi về, trút một gánh sầu về ngay. Xua buồn từ bấy đến nay, Nào ai mó đến xa quay, xin thề! Ngại ngùng đường cửi đi về Chân dừng dây đạp, tay e thoi chuyền. Lắng tai nghe tiếng ác truyền, Đường sầu cuốn khúc, tấm phiền đổ hoa. Chẹ duyên dằng lại tháo ra, Gần nhau cách quãng, lại xa mối hồi. Liều bằng khổ một gò đôi Coi như bóng đã bắn rồi bong bong.

Nguyễn Du nhận được bài thơ bèn mượn lời phường nón là nghề chuyên môn của làng Tiên Điền để đối lại một bài như sau:
Tiếc thay duyên Tấn phận Tần, Chưa quen đã lạ, chưa gần đã xa! Chưa chi đông đã rạng ra, Đến giờ chỉ giận con gà chết toi! Tím gan cho cái sao mai, Thủa nào vác búa chém trời cũng nên. Về qua liếc mắt trông miền, Lời quanh dặm dế, chửa yên dặm ngồi. Giữa thềm tàn đuốc còn tươi, Bã trầu chưa quét, nào người tình chung? Hồng sơn cao ngất mấy trùng. Đò Cài mấy trượng thì lòng bấy nhiêu! Làm chi cắc cớ lắm điều, Mới đêm hôm trước lại chiều hôm ni. Khi xa, xa hỡi như ri, Tiếng xa nghe vẫn rù rì bên tai. Quê nhà nắng sớm mưa mai Đã buồn, giở đến lịp tơi càng buồn. Thờ ơ đóng vọt bó sườn; Đã nhàm bẹ móc, lại hờm nắm giang Trăng tà chênh chếch bóng vàng, Dừng chân thoạt nhớ đến đàng cửa truông. Thẫn thờ gối chiếc màn suông, Rối lòng như sợi ai guồng chưa xong Phiên nào chợ Vịnh ra trông, Mồng ba chẳng thấy lại hòng mười ba Càng trông, càng chẳng thấy ra, Cơi trầu quệt đã để và lần ôi. Tưởng rằng nói thế mà chơi, Song le đã động lòng người lắm thay. Trông trời, cách mấy từng mây, Trông trăng, trăng hẹn đến ngày ba mươi. Vô tình, trăng cũng như người Một ta, ta lại gẫm cười chuyện ta…
[Theo THÁI KIM Đ?NH]
|